Ngưu Tất là vị thuốc nam quý, được sử dụng rộng rãi trong YHCT. Hiện tại hầu hết các cửa hàng thuốc đông dược, phòng khám đông y, phòng chẩn trị YHCT… đều có bán vị thuốc này.
Và bài viết dưới đây, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu kỹ hơn về Ngưu tất. Xem nó có tác dụng, đặc điểm và vai trò như thế nào trong việc chăm sóc sức khỏe con người.
Đặc điểm của Ngưu tất
Tên khác: Cỏ xước, hoài ngưu tất , Nhiều tài liệu y học còn ghi nhận các tên khác như Bách bội (Bản Kinh), Ngưu kinh (Quảng Nhã), Thiết Ngưu tất (Trấn Nam Bản Thảo), Thổ ngưu tất (Bản Thảo Bị Yếu), Hồng ngưu tất (Giang Tây, Tứ Xuyên), Xuyên ngưu tất, Ngưu tịch, Tiên ngưu tất, (Đông Dược Học Thiết Yếu)
Tên dược: Radix Achyranthis bidentatae; Radix cyathulae.
Tên khoa học: Achyranthes bidentata Blume, thuộc họ Rau dền – Amaranthaceae.
Tiếng trung: 牛 膝

Mô tả
Cây thân thảo sống nhiều năm, cao 60-110cm. Rễ củ hình trụ dài. Thân có 4 cạnh, phình lên ở các đốt như gối trâu lên gọi là ngưu tất,
Lá mọc đối, hình trái xoan bầu dục cỡ 15x5cm, nhọn hai đầu, mép lượn sóng, có lông thưa hay không lông; gân phụ 5-7 cặp; cuống ngắn 1-3cm. Cụm hoa hình bông mọc ở ngọn thân hoặc đầu cành; hoa ở nách những lá bắc.
Quả bế hình bầu dục, chứa một hạt hình trụ.
Hoa tháng 5-9, quả tháng 10-11.
Lưu ý phân biệt
Cây ngưu tất là một loại cỏ xước cho nên người ta nhầm với cây cỏ xước Achyranthes aspera L.
Cỏ có thân mảnh, hơi vuông, thường chỉ cao 1m, cũng có khi tới 2m. Lá mọc đối có cuống, dài 5-12cm, rộng 2-4cm, phiến lá hình trứng, đầu nhọn, mép nguyên.
Cụm hoa mọc thành bông ở đầu cành hoặc kẽ lá. Hiện ta đang trồng giống ngưu tất di thực của Trung Quốc có rễ to hơn cây cỏ xước mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta.
Có thể tìm loại cỏ xước ở nước ta dùng làm ngưu tất được. Rễ đào về rửa sạch, phơi hoặc sấy khô.
Nhìn bề ngoài, Cỏ xước không xanh tốt, mượt mà như Ngưu tất vì Ngưu tất là cây trồng được chăm sóc cẩn thận hơn.
Điều khác biệt rõ nhất là phiến lá Ngưu tất to hơn và tù hơn, còn lá Cỏ xước gầy và nhọn hơn.
Để phân biệt nhanh chóng, khi gặp cây Cỏ xước, nhổ lên xem rễ. Rễ Cỏ xước rất nhiều rễ con, rễ cái bị gỗ hoá. Còn rễ Ngưu tất ít rễ con hơn, rễ cái nạc và dài như chiếc đũa.

Phân bố
Hoài ngưu tất chủ yếu sản xuất ở Hà Nam; Xuyên ngưu tất chủ yếu sản xuất ở Tứ xuyên, Vân Nam, Quý Châu trung quốc, cây được di thực vào việt nam, trồng được cả ở núi cao lẫn đồng bằng.
Cây Ngưu tất ở Việt Nam gọi là cây cỏ xước, loại này nhỏ hơn Ngưu tất di thực
Thu hái chế biến
- Bộ phận dùng: Rễ cây
- Thu hái vào mùa Đông lá thân khô héo đào lấy, bỏ sạch rễ râu, đất, sau khi phơi đến nhăn khô, dùng Lưu hun vài lần, sau đó cắt đều đầu nhọn, phơi khô và cắt thành lát mỏng. .
Thành phần hoá học
Rễ củ chứa saponin tritecpenoid (sau khi qua nước thủy phân thành oleanolic acid và đường), genin là acid oleanolic, các sterol ecdysteron, inokosteron, glucoza, polysaccharide, muối kali. ..
Ngưu tất còn hàm chứa arginine (Arg) v.v… 12 lọai amino acid và alkaloids, hợp chất coumarins v.v… và nguyên tố vi lượng sắt, đồng v.v…

Tác dụng dược lý
- Theo một số nghiên cứu Ngưu tất có tác dụng thúc đẩy quá trình tổng hợp protein.
- Dịch chiết Cồn Ngưu tất có tác dụng ức chế tim ếch cô lập, làm giãm mạch hạ áp, hưng phấn tử cung có thai hoặc không có thai.
- Thuốc còn có tác dụng lợi tiểu, làm hạ đường huyết, cải thiện chức năng gan, hạ cholesterol máu.
- Tổng saponin Ngưu tất có tác dụng hưng phấn rõ rệt đối với cơ trơn tử cung, chất chiết benzene
- Hoài ngưu tất có tác dụng chống sinh sản, chống lại quá trình cấy (đưa phôi vào tử cung) và chống mang thai sớm, thành phần hữu hiệu chống sinh sản là ecdysterone.
- Chất chiết cồn Ngưu tất có tác dụng ức chế tim động vật nhỏ thực nghiệm, thuốc sắc đối với cơ tim chó gây mê cũng có tác dụng ức chế.
- Thuốc sắc và dịch chiết cồn có tác dụng lợi niệu độ nhẹ và giáng áp ngắn tạm thời, và có hưng phấn hô hấp.
- Hoài ngưu tất có khả năng làm giảm độ dính của máu ở chuột lớn, tỷ lệ thể tích huyết cầu, chỉ số tụ tập hồng huyết cầu, và có tạp dụng chống đông.
- Ecdysterone có tác dụng giáng mỡ, và có thể giáng thấp đường huyết rõ rệt. Ngưu tất có tác dụng chống viêm, trấn thồng (giảm đau), có thể đề cao công năng miễn dịch cơ thể.
Vị thuốc Ngưu tất (Bách bội)
Vị thuốc Bách bội là rễ đã chế biến phơi khô của cây Bách bội
Cỏ xước có thể dùng thay cho Bách bội nhưng tác dụng kém nhiều so với Bách bội, có lẽ cũng vì vậy mà Dược điển Việt Nam chỉ nêu cây Bách bội di thực mà chưa ghi Cỏ xước (hoặc Nam Ngưu tất).

Tính vị
Vị đắng, chua và tính ôn.
Qui kinh
Can và Thận
Công năng
Hoạt huyết, trừ ứ bế và điều kinh. Bổ can, thận, khoẻ cơ gân, lợi tiểu, chống loạn tiểu tiện. Làm thuốc dẫn (sứ dược) cho các bài thuốc trị bệnh phần dưới cơ thể -Tăng tưới máu cho phần dưới cơ thể.
Liều dùng
12-20g
Chống chỉ định
- Không dùng Bách bội cho thai phụ hoặc ra nhiều kinh nguyệt.
- Ghét Hùynh hỏa, Qui giáp, Lục anh. Sợ Bạch tiền
- Bách bội có tính hoạt, không dùng cho người di tinh, mộng tinh
Ứng dụng lâm sàng của Ngưu tất (Bách bội)
Ứ máu biểu hiện như vô kinh, ít kinh, loạn kinh và đau do chấn thương ngoài:
Dùng phối hợp Bách bội với táo nhân, hồng hoa, đương qui và diên hồ sách.
Can và thận kém biểu hiện như đau và yếu vùng thắt lưng và chân:
Dùng bài Bách bội tán ( Y Phương Hải Hội-Lê Hữu Trác):
- Bổ cốt chỉ, Đỗ trọng, Hồ lô ba, Bách bội, nhục thung dung, phòng phong, tật lê, thỏ ty tử, tỳ giải đều 40g, Nhục quế 20g
- Dùng cật heo nấu với rượu, giã nát luyện với thuốc làm hoàn.
Giãn mạch máu quá mức biểu hiện như nôn ra máu và chảy máu cam:
Dùng phối hợp Bách bội với tiểu kế, trắc bách diệp và bạch mao căn.
Âm suy và dương vượng dẫn đến phong can nội chạy lên trên biểu hiện như đau đầu, hoa mắt và Chóng mặt:
Dùng phối hợp Bách bội với đại giả trạch, mẫu lệ và long cốt dưới dạng trấn can tức phong thang.
Âm suy và vương hỏa biểu hiện như loét miệng và sưng lợi:
Dùng phối hợp Bách bội với sinh địa trùng và tri mẫu.
Rối loạn đường niệu biểu hiện như đi tiểu đau, đái ra máu và nước tiểu ít:
Dùng phối hợp Bách bội với thông thảo, hoạt thạch và cù mạch dưới dạng Bách bội thang.
Trị chứng tê thấp khớp đau:
- Dùng Bách bội phối hợp với Thương truật, Hoàng bá, Ý dĩ như các bài: Tam diệu tán (hoàn) ( Y học chính truyền): Thương truật 12g, Xuyên Bách bội 12g, Hoàng bá 8g, tán bột mịn trộn đều mỗi lần uống 10g, ngày 3 lần với nước gừng.
- Tứ diệu hoàn (Thanh phương tiện độc) gồm Bách bội gia Mộc qua, Phòng kỷ, Tỳ giải
Trị tử cung xuất huyết cơ năng:
Dùng Xuyên Bách bội mỗi ngày 30 – 45g sắc uống. uống liên tục 2 – 4 ngày hết xuất huyết, trường hợp xuất huyết lâu ngày, uống tiếp thêm 5 – 10 ngày cũng cố
Trị các chứng kinh nguyệt khó, kinh nguyệt thất thường và đau khi có kinh ở những phụ nữ:
Ngưu tất 9g, Quế chi 9g, Thược dược 9g, Đào nhân 9g, Đương qui 9g, Mẫu đơn bì 9g, Diên hồ sách 9g, Mộc hương 3g.
Trị tiểu tiện không thông, phụ nữ huyết bị kết, bụng và lưng đau:
- Dùng Cam thảo 40g , Địa cốt bì 40g , Hải đồng bì 80g , Khương hoạt 40g , Bách bội . 40g , Ngũ gia bì 40g , Sinh địa 400g , Xuyên khung 40g , Ý dĩ nhân 40g
- Tán bột. Bọc vào lụa mỏng, ngâm rượu 27 ngày
- Mỗi ngày uống 1 chung (10ml) đến 4 chung nhỏ.

Một số bài thuốc có Ngưu tất (Bách bội) làm chủ dược
Bài thuốc Tráng dương
Bài thuốc Tráng dương, tán hàn, trừ phong thấp, mạnh gân cốt, hòa huyết mạch. Trị lưng đau, gối mỏi, 2 chân yếu, chóng mặt, hoa mắt, tay chân lạnh của Triệu cát trong thánh tễ tổng lục:
- Đan sâm …………15g
- Đỗ trọng ……….. 30g
- Đương quy ……. 30g
- Hổ cốt …………. 45g
- Kim anh ………… 15g
- Bách bội (Hoài) ……………. 15g
- Bách bội (Xuyên) ………….30g
- Phòng Phong ……… 15g
- phụ tử (chế) ….. 15g
- Sinh địa ………..30g
- Sơn thù ……….. 15g
- Thạch Hộc ……… 15g
- Tiên linh tỳ …… 30g
- Tỳ giải ………….30g
- Ý dĩ nhân ………. 30g
Giã nát, cho vào túi vải, để vào bình, ngâm với 3 lít rượu.
Mùa xuân, hạ: ngâm 7 ngày, mùa thu, đông: ngâm 9 ngày.
Mỗi ngày uống 2 ly, lúc bụng đói.
Bách bội tán
Thuốc dùng trị các chứng kinh nguyệt khó, kinh nguyệt thất thường và đau khi có kinh ở những phụ nữ thể lực tương đối tố
Ngưu tất tán (Hải thượng lãn ông)
Trị cước khí sưng đau, kinh nguyệt không đều.
Ngưu tất thang
(Tam Nhân Cực – Bệnh Chứng Phương Luận):
Trị tiểu tiện không thông, phụ nữ huyết bị kết, bụng và lưng đau.
Ngưu tất hoàn (Loại Chứng Hoạt Nhân Bản Sự Phương)
Nhục Thung Dung Ngưu Tất Hoàn
(Trương Nhuệ) : Bổ thận, chấn tinh, cường cân, tráng cốt. Trị hạ nguyên bất túc
Bài thuốc Trị sản hậu đùi (chân) đau.
Thẩm Thị Tôn Sinh Thư.
Thẩm Kim Ngao
Vị thuốc:
- Bạch thược
- Cam thảo
- Câu kỷ tử
- Hoàng bá
- Mộc qua
- Ngưu tất
- Sinh địa
- Thạch hộc
- Toan táo nhân
- Xa tiền tử
Lượng bằng nhau. Sắc uống.
Tác dụng của ngưu tất theo y văn cổ
Sách Bản kinh: “chủ hàn thấp nuy tý, chân tay co quắp, gối đau không duỗi được, trục huyết khí, lở lóet do hỏa nhiệt, trụy thai”.
Sách Danh y biệt lục: ” trị nam thận âm suy giảm, người già tiểu không tự chủ, tăng cốt tủy, trị đau trong não và cột sống thắt lưng, trị phụ nữ kinh nguyệt không đều, huyết kết, ích tinh, lợi âm khí, giảm tóc bạc”.
Sách Bản thảo cương mục: ” Ngưu tất sao rượu bổ can thận, dùng sống trừ ác huyết ( máu độc). Trị đau lưng gối, chân teo, âm tiêu ( yếu sinh lý) tiểu không tự chủ ( thất niệu), sốt rét lâu ngày (cửu ngược). Thuốc còn trị chứng trưng hà, các chứng tâm phúc thống, ung thũng ác sang, họng lợi răng đau, tiểu đau, tiểu ra máu, các chứng kinh thai sản nhờ thuốc có tác dụng khử ác huyết”.
Sách Bản thảo thông huyền: ” trị chứng ngũ lâm, dùng Ngưu tất 1 lạng gia thêm ít Nhũ hương sắc uống vài thang là khỏi, nhờ tác dụng đi xuống mà thông được tiểu tiện”.
Sách Y học Trung trung tham tây lục: ” Ngưu tất nguyên là thuốc bổ, chuyên đưa khí huyết đi xuống, mà dùng làm thuốc dẫn dược.Thuốc trị chứng thận hư, đùi lưng đau, gối đau không co duỗi được, cẳng teo không đi lại được. Trị con gái kinh bế huyết khô, có tác dụng dục sản. Trị chứng tiểu buốt (lâm thống), thông lợi tiểu tiện”.

Ngưu tất (Bách bội) và cỏ xước
Cây Bách bội là một loại cỏ xước cho nên người ta nhầm với cây cỏ xước Achyranthes aspera L.
Cỏ có thân mảnh, hơi vuông, thường chỉ cao 1m, cũng có khi tới 2m. Lá mọc đối có cuống, dài 5-12cm, rộng 2-4cm, phiến lá hình trứng, đầu nhọn, mép nguyên.
Cụm hoa mọc thành bông ở đầu cành hoặc kẽ lá, Nhìn bề ngoài, Cỏ xước không xanh tốt, mượt mà như Ngưu tất vì Ngưu tất là cây trồng được chăm sóc cẩn thận hơn.
Điều khác biệt rõ nhất là phiến lá Bách bội to hơn và tù hơn, còn lá Cỏ xước gầy và nhọn hơn. Để phân biệt nhanh chóng, khi gặp cây Cỏ xước, nhổ lên xem rễ. Rễ Cỏ xước rất nhiều rễ con, rễ cái bị gỗ hoá. Còn rễ Bách bội ít rễ con hơn, rễ cái nạc và dài như chiếc đũa. Ở nước ta, cây Bách bội trồng ít khi cao quá 1m.
Thân thảo hơi gầy và hơi vuông, phân thành đốt, phình ra ở hai đầu trông giống như đầu gối con trâu nên có tên là Ngưu tất. Lá mọc đối, có cuống, dài từ 5cm – 10cm, phiến lá hình trứng đầu nhọn.
Cụm hoa mọc thành bông ở đầu cành hoặc kẽ lá. Rễ gồm 1 hoặc 2, hoặc 3 rễ cái, chung quanh có rễ con. Rễ cái nạc, lúc đầu hơi giòn, màu trắng ngà, sau khi chế biến có màu hơi hồng, trong và mềm dẻo..
[anxuongkhop2]